
Đáp án đề thi môn Văn tốt nghiệp THPT năm 2012
Môn
: Văn
I. Phần chung
Câu 1:
1. Hai con người được nói đến là hai cha con: Xô-lô-khốp và
Vania.
2. Hai con người côi cút
Khi chiến tranh bùng nổ, Xô-lô-khốp chia tay vợ con lên đường
ra trận, bị thương rồi bị bắt làm tù
binh, bị đày đọa 2 năm trong trại tập trung 2 phát xít. Phát xít Đức bắt cả tù
binh lái xe - cơ hội để Xô- cô -lốp trốn thoát, trở về phía Hồng quân Biết tin
ngôi nhà bị trúng bom phát xít, vợ và hai con gái bị giết hại. Con trai - giờ
là đại úy pháo binh cũng đang tiến công vào Berlin, nhưng đúng vào ngày chiến thắng,
9/5/1945, đứa con trai duy nhất, niềm hy vọng cuối cùng của anh đã bị một tên
thiện xạ Đức bắn chết. Bản thân anh lại đã hai lần bị thương ,bị đày đoạ trong
trại tập trung của phát xít,bây giờ lại còn bị bệnh tim hành hạ.
Gặp bé Vania "đầu tóc rối bù", "rách bươm xơ
mướp", sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó... ai cho gì thì ăn mấy",
nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của em "như những ngôi sao sáng ngời”.Khi
nghe tin bố mẹ nó đều chết trong chiến tranh,những giọt nước mắt nóng hổi sôi
lên trong mắt Xôcôlốp và lập tức anh quyết định sẽ nhận chú bé làm con. Anh đã
cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Câu nói khẽ của Xôcôlốp: "Là bố của
con" khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: "Thế chú là ai?" tưởng là
bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mông! Hai
linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh
được dịu lại.
3. Hình ảnh hai hạt cát:
Khi tình cờ nhìn thấy bé Vania và anh bắt đầu thấy thích
nó.Xô cô lốp nhận Vania làm con, sống hạnh phúc bên nhau. Hai con người côi
cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới
những miền xa lạ ...
Nhà văn không có ý hạ thấp, coi thường con người cá nhân mà
mà kín đáo nhắc nhở, kêu gọi sự quan tâm của toàn xã hội đối với cá nhân con
người. Sôlôkhốp không chỉ miêu tả cá nhân góp phần tạo nên lịch sử, mà co nhấn
mạnh trách nhiệm của lịch sử trước mỗi cá nhân, đồng thời góp tiêng nói lên án
“bão tố chiến tranh” phi nghĩa, và sức mạnh phũ phàng của nó. Đó là thái đô
“Nói với bạn đọc một cách trung thực, nói cho mọi người biết sự thật, đôi khi
là khắc nghiệt nhưng bao giờ cũng táo bạo, củng cố trong lòng người niềm tin ở
tương lai, tin ở sức mạnh của mình có khả năng xây dựng tương lai đó”.
Câu 2:
Nguyên nhân quan trọng nhất để xảy ra hiện tượng
nói dối đó là nhận thức non yếu, hay là sự thiếu hiểu biết của người nghe “sự lầm
lẫn bổ sung cho sự ngu dốt một ảo ảnh về sự hiểu biết” và người nói đã lợi dụng
sự thiếu hiểu biết này để hình thành một cách thức giao tiếp khác: cố tình nói
điều không đúng. Do vậy nói dối có thể xảy ra khi người nói đã nhận thức đúng vấn
đề, nhưng cố tình đưa ra thông tin sai thực tế ngay từ đầu. Hoặc có thể mới đầu
người nói chưa nhận thức được, tin là sự thực, song người nghe không phát hiện
ra và người nói sau khi kiểm chứng biết là sai vẫn không điều chỉnh lại. Sự nói
dối bắt đầu từ lúc biết là nói sai mà không điều chỉnh lại ấy. Đạo đức truyền
thống thường xem việc cố tình nói điều không đúng là không chấp nhận được. Với
những nhà luân lý học thì sự dối trá phải được lên án một cách tuyệt đối và triệt
để. Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống thì lại hoàn toàn không vậy. Con người
sống trong xã hội với những mối quan hệ đan xen và phụ thuộc lẫn nhau thì sự thật
đôi khi không đáp ứng được yêu cầu cuộc sống. Trên thực tế, chúng ta vẫn gặp những
câu trách móc kiểu “Cậu này thật thà
quá”, hoặc những yêu cầu kiểu “Cậu
nhớ nói khéo khéo nhé!”, thậm chí những
lời tâm sự “mình phát hiện ra rằng với bố mẹ chồng thì không cần có sự thành thật,
cũng ko cần sự đơn giản vì bố mẹ chồng mình
thích những lời nói
"điêu" chỉ để nghe cho sướng
tai mà thôi”. “Đơn giản là vì sự
thật không như mong đợi nên người ta mới vỗ về và nịnh bợ nhận thức của bản thân và người xung
quanh”. Đây là một nhận xét xác đáng. Chính cái nghịch lý trong sự dối trá lại
là cái có thể thay thế cho cái chân lý khi cả hai đều nhằm cùng mục đích cũng
như kết quả như nhau, thiết lập sự tin tưởng giữa những con người trong một sự
hài hoà chung Chính vì nguyên nhân này mà “Talleyrand cho rằng sự dối trá là vấn
đề thuộc bình diện tiện lợi hơn là vấn đề đạo đức chân chính”. Nói dối là một
hoạt động nhằm đáp ứng những nhu cầu có thực của đời sống con người. Nó không
những tồn tại mà còn ngày càng phát triển đa dạng, phong phú về cả thể loại
cũng như cách thức.
II. Phần
riêng
Câu 3a.
Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội tiếp tục
lãnh đạo phong trào cách mạng . Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc
. Đây là bài thơ ân tình cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp
của Việt Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến
khi kháng chiến thắng lợi . Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam
nữ nhưng lại thể hiện những ân tình cách mạng , và vì thế bài thơ như một chất
men say ngấm sâu vào lòng người , trở nên gần gũi , đằm thắm hơn với những cung
bậc lan toả của nó .
Bài thơ là những hồi tưởng của tác giả về những ngày khó khăn
gian khổ nhưng chứa đầy tình người nồng ấm, là nhưng nỗi nhớ của tác giả, là những kỷ
niệm với những con người, với cảnh vật nơi đây. Và đoạn thơ: “Ta đi ta nhớ những ngày
…. Chày đêm nên cối đều đều suối xa” như khắc hoạ rõ hơn về tình cảm của tác giả
Dù là
một nơi nhỏ trong chốn núi rừng Việt Bắc bao la, nhưng dường như trong ký ức
của tác giả nó cũng trở nên quan trọng, không bao giờ có thể quên.Một sự khẳng
định chắc chắn…không bao giờ có thể quên:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
Dù bản
thân có đi xa, dù có ở nơi chốn nào thì vẫn sẽ luôn nhớ về “mình”. Ngôn từ xưng
hô thật giản dị mà thân thương. “Mình” cùng “ta” nào có thể quên được những
“đắng cay ngọt bùi” đã trải qua. Hình ảnh ẩn dụ “đắng cay” chính là những khó
nhọc, gian nan mà nhân dân cùng cán bộ đã phải trải qua trong suốt thời kỳ
kháng chiến, còn niềm vui chiến thắng không gì khác chính là “ngọt bùi”. Từng
nỗi nhớ như tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu biểu hiện cho một tình cảm sâu nặng
tựa như nỗi tương tư đến “người thương”. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại càng
khắc sâu hơn sự nhớ nhung ngghìn trùng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.
Nhớ những ngày cùng nhau chia sẻ khó
khăn gian khổ
Thương
nhau chia củ sắn lùi
Bát
cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Tuy
thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa:
Hình
ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng"
kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối
tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách
mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm",
"chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là
một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
Nhớ tình cảm của những người mẹ Việt
Bắc:
Nhớ
người mẹ nắng cháy lưng.
Địu
con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Hình
ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng... gợi người đọc liên tưởng đến sự tần
tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc,
cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái
ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người
về xuôi .
Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những
âm thanh quen thuộc:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng
khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ
sao ngày tháng cơ quan
Gian
nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ
sao tiếng mõ rừng chiều
Chày
đêm nện cối đều đều suối xa...
Đoạn
thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết
sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ đối ý mà nêu
bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn
rất gian khổ, khó khăn :
"Gian
nan đời vẫn ca vang núi đèo"
Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều" và "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.
Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều" và "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.
Cả
đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của TH. Điệp từ “nhớ”
cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo
vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt
ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảh cùng địa danh của Việt Bắc đã
khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với
quê hương thứ hai của mình.
Đoạn
thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng
của nhà thơ, hay cũng chính là của những người VN trong kháng chiến. Với những
câu thơ dạt dào cảm xúc, TH đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ
dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tìh cảm công dân xã hội mà
còn là sự sâu nặng như tình yêu lứa đôi. Nhờ vậy Việt Bắc đã trở thành tp tiêu
biểu cho van học Việt Nam
thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Bằng
những vần thơ đậm chất dân tộc, nỗi nhớ cùng tình cảm chugn thủy sắt son giữa
người CB với nhân dân, thiên nhiên VIệT BắC cùng cuộc kháng chiến được khắc họa
rõ nét. Thật hiển nhiên, TH xứng đáng trở thành ngọn cờ đầu của thơ ca CMVN
Câu 3b.
Hầu hết các nhà thơ nhà văn đều có tác
phẩm liên quan đến đề tài dòng sông nhưng có lẽ con sông Đà uốn lượn trong
trang văn của Nguyễn Tuân là có dáng vẻ độc đáo nhất. Trước hết đó là dòng sông
có “nhiều vực xoáy nhiều luồng nhiều đá ghềnh nhiều sóng thác” mà Nguyễn Tuân
gọi là con sông hung bạo.
Bờ sông có những đoạn rất hiểm trở mà
Nguyễn Tuân gọi là “bờ sông dựng vách thành vách đá chẹt lòng sông như một cái
yết hầu”. Hơn thế nữa “mặt sông chõi đúng ngọ mới thấy mặt trời ngồi trong
khoan đò đi qua quãng ấy vào mùa hè cũng cảm thấy lạnh”. Mặt sông đà “cả một
chân trời đá nó bày thạch trận trên sông đám tản đám hòn chia làm ba hàng chặn
ngay trên sông đòi ăn chết cái thuyền”.
Có những đoạn mặt ghềnh
“nước xô đá đá xô sóng sóng xô gió cuồn cuộn những luồng ghùm ghè suốt năm”.
Lại có những đoạn sông nước xoáy “có những cái hút nước như cái giếng bê tông
thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”.
Sông Đà không chỉ dữ
dội về hình khối mà còn dữ dội về âm thanh “tiếng thác nước nghe như oán trách
rồi lại như van xin rồi rống lên như ngàn con trâu mộng”. Ở những đoạn nước
xoáy “nước ở đây thở và kêu như cái cống bị sặt”.
Với cách miêu tả mang
cảm giác mạnh nhà văn Nguyễn Tuân đã dựng nên một nét tính trội của sông Đà đó
là rất dữ dội hung bạo nhưng đồng thời nó cũng rất sống động như một sinh thể
sống. Vì thế tác giả gọi con sông Đà chứ không phải là dòng sông.
Nguyễn Tuân khi phản
ánh sự vật sự việc bao giờ cũng tìm cách đẩy sự vật sự việc đến độ tột cùng tột
đỉnh. Vì thế sông Đà trong con mắt của Nguyễn Tuân hung bạo bao nhiêu thì cũng
rất trữ tình bấy nhiêu.
Trước hết sông Đà hiện
lên rất giàu chất thơ đẹp đến mê hồn người “sông Đà tuôn chảy như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa bang hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đất nương xuân”.
Sông Đà không chỉ đẹp ở
hình dáng mà còn đẹp ở sự thay đổi sắc màu ấn tượng “mùa xuân dòng xanh ngọc
bích”, “mùa thu nước từ từ chín đỏ”.
Bờ sông không phải lúc
nào cũng dựng vách thành mà nhiều quãng sông “bờ sông hoang dại như thời tiền
sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích”, “cảnh ven sông ở đây lặng lẽ như
tờ, hình như đời Lí đời Trần đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ thế thôi”.
Trên bãi sông sự sống
dâng tràn “cỏ gianh đầu núi đang ra nõn búp”, “nương ngô nhú mấy lá ngô non đầu
mùa”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương”.
Sông Đà không chỉ có vẻ
đẹp trữ tình của hình dáng của màu sắc mà còn có vẻ đẹp trữ tình của sức sống
êm đềm sinh sôi. Đối với Nguyễn Tuân sông Đà đã trở thành một cố nhân và sông
Đà càng đẹp hơn trong khúc hát xây dựng tương lai.
Để xây dựng hình tượng con sông Đà như một
sinh thể có số phận nhà văn đã huy động tổng hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật. Đó
là nghệ thuật tả thực và lãng mạn, đó là sự phối hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật
của hội họa, của điện ảnh. Đặc biệt là nghệ thuật sử dụng ngôn từ một cách đa
dạng sáng tạo, nhờ thế vẻ đẹp của dòng sông đặc tính của dòng sông được hiện
lên rất đa diện. Xây dựng hình tượng con sông Đà nhà văn vừa để chứng mình tài
nghệ của người lái đò sông Đà vừa để chứng minh sông Đà là một con sông đặc
biệt vừa hung bạo vừa trừ tình nhưng cũng vừa đầy triển vọng trong khúc hát xây
dựng tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét